Tam Hàn
Tam Hàn

Tam Hàn

Thời kỳ Tam Hàn trong lịch sử Triều Tiên bao gồm ba liên minh bộ lạc là Mã Hàn, Thìn HànBiện Hàn ở trung và nam bộ bán đảo Triều Tiên, vào thế kỷ cuối cùng trước Công nguyên và các thế kỷ đầu sau Công nguyên. Các liên minh bộ lạc này cuối cùng bị sáp nhập vào hai trong Tam Quốc Triều Tiên vào thế kỷ 4 SCN.Han (Hàn) là một từ tiếng Triều Tiên có nghĩa là "vĩ đại" hay "lãnh tụ" (cũng nguồn gốc với "khan (hãn)" được sử dụng cũng với ý nghĩa là lãnh tụ tại vùng trung Á). Han được chuyển sang Hán tự là 韓 (hàn), 幹 (hàn, cán), hay 刊 (khan), nhưng không có liên hệ với người Hán (漢) hay nước Hàn(韓) của Trung Quốc. Ma (mã) nghĩa là "nam", Byeon (biện) nghĩa là "sáng ngời" và Jin (thìn) nghĩa là "đông".[1] Tên của các liên minh bộ lạc này nay được lưu lại trong quốc hiệu, Đại Hàn Dân Quốc.Tam Hàn được hình thành vào khoảng thời gian sau sự sụp đổ của Cổ Triều Tiên ở miền bắc bán đảo vào năm 108 TCN, khi đó Thìn Quốc ở miền nam bán đảo cũng biến mất khỏi sử sách. Đến thế kỷ thứ 4, Mã Hàn hoàn toàn bị hấp thu vào vương quốc Bách Tế, Thìn Hàn hợp vào lãnh thổ vương quốc Tân La, và Biện Hàn trở thành liên minh Già Da (Gaya), sau đó bị Tân La thôn tính.

Tam Hàn

Hanja
三韓
Romaja quốc ngữ Samhan
Hangul
삼한
Hán-Việt Tam Hàn
McCune–Reischauer Samhan